Ảnh hưởng Đảo chính Tiệp Khắc năm 1948

Khối phía Đông

Tiệp Khắc sống dưới quyền chế độ cộng sản đến năm 1989.[21] Lập tức nói tới Chiến tranh Lạnh là nói tới cuộc đảo chính Tiệp Khắc. Cái chết của nước dân chủ cuối cùng còn sót lại ở Đông Âu kinh động hàng triệu người. Vừa mới đánh bại Đức Quốc xã, phương Tây lại phải khoanh tay đứng nhìn độc lập dân chủ của một nước nhỏ bị một nước toàn trị diệt bỏ.[12][22]

Việc làm của Liên Xô chứng minh những lời cảnh cáo tiêu cực, đen tối nhất của phương Tây về Liên Xô: Liên Xô mà đã ước hẹn thì sẽ sai hẹn. Cuộc đảo chính thúc đẩy các nước phương Tây đoàn kết chống lại khối cộng sản và cho Pháp và Ý thấy rõ ràng hậu quả nếu họ đã không loại trừ phe cộng sản bên trong chính phủ một năm trước.[12]

Cuộc đảo chính cũng yên định việc thành lập nước Tây Đức và đẩy nhanh việc sửa soạn Hiệp ước Bruxelles dựng nên Liên minh phương Tây vào tháng sau.[23] Nguyên là đến đầu năm 1948 các đại biểu của phương Tây và Liên Xô vẫn hay trao đổi ở cấp bộ trưởng ngoại giao. Tuy nhiên, cuộc đảo chính Tiệp Khắc phá vỡ quan hệ giữa hai bên. Nay các nước phương Tây quyết định sẽ bảo vệ lẫn nhau;[24] đầu tháng 3 ngay Pháp cũng đòi thành lập liên minh quân sự cùng cam kết là các nước sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong một số trường hợp, mặc dù trước đó còn ngờ phương Tây.[25]

Liên Xô xem cuộc đảo chính xảy ra vào lúc rất đen đủi: đương lúc các bộ trưởng ngoại giao phương Tây họp ở Luân Đôn thì phe cộng sản cướp chính quyền ở Tiệp Khắc. Trong mắt phương Tây cuộc đảo chính cho thấy cái chủ nghĩa cộng sản khó chấp nhận nhất; Liên Xô dường như quyết tâm bành trướng và đàn áp tự do.[8]

Hoa Kì

Quốc hội Hoa Kì nhanh chóng cấp hơn 5 tỉ đô la Mỹ cho năm thứ nhất của Kế hoạch Marshall dưới sức ép của dư luận, mặc dù đã có dân biểu thượng nghị sĩ phản đối dự luật.[12]

Trước khi cuộc đảo chính Tiệp Khắc xảy ra thì giới hoạch định chính sách Hoa Kì hầu hết chủ trương dùng tiền bạc ngăn chủ nghĩa cộng sản, thông qua tiền viện trợ nước ngoài cùng Kế hoạch Marshall, và lấy bom nguyên tử làm hậu thuẫn. Tổng thống Harry S. Truman thấy rằng người dân Mỹ chưa sẵn sàng tích lũy vũ khí quy mô lớn hay đối đầu với Liên Xô. Biết trước Kế hoạch Marshall sẽ tiêu rất nhiều tiền, ông quyết định tăng cường quân đội từ từ và tìm cách giữ chi phí quốc phòng hàng năm dưới 15 tỉ đô la.

Cuộc đảo chính cho thấy ông sai. Hoa Kì vừa quá phụ thuộc vào bom nguyên tử, vừa không thể phụ thuộc vào các lực lượng thông thường. Lúc cuộc khủng hoảng xảy ra thì khoảng mười sư đoàn thiếu quân bị huấn luyện của Hoa Kì và Tây Âu phải đối mặt với hơn 30 sư đoàn của Liên Xô. Bên cạnh đó Bộ Quốc phòng phàn nàn rằng kho vũ khí nguyên tử của Mỹ và sức mạnh không quân để dùng nó hoàn toàn không đủ. Rõ ràng là quân đội Hoa Kì không có cách răn đe Liên Xô đáng tin cậy ở châu Âu.

Phe hiếu chiến đoạt được chỗ đầu gió sau cuộc đảo chính. Lầu Năm Góc bắt đầu chạy hành lang nhằm tăng chi phí quân sự, Hội đồng An ninh Quốc gia thì kêu gọi “phản công trên toàn thế giới” chống lại khối Liên Xô, bao gồm viện trợ quân sự Liên minh phương Tây. Ngày 17 tháng 3 Truman lên đài phát thanh đề nghị lập lại chế độ quân dịch đã hết hiệu lực vào năm trước và xin Quốc hội thông qua chương trình Huấn luyện Quân sự Phổ cập. Ông muốn báo cho Liên Xô biết, Hoa Kì sẽ giữ vững chỗ đứng và sẵn sàng tăng gia quân bị lại ồ ạt về mai sau nếu cần thiết. Quốc hội bác bỏ chương trình huấn luyện, nhưng đồng ý khôi phục nghĩa vụ quân sự và cấp số tiền lớn 25% hơn đề nghị ban đầu cho lực lượng không quân bao gồm 70 nhóm.[26]

Mặc dù vậy, chính sách ngoại giao của Hoa Kì hầu hết giữ nguyên. Hoa Kì không hề nghĩ Liên Xô sẽ hướng Âu và cũng chẳng hề muốn gánh vác nhiều trách nhiệm bảo vệ Tây Âu hơn. Trên thật tế Hoa Kì ra tay để ra oai, giảm bớt tác động của cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc, và vỗ về cho yên người dân rất sợ bùng nổ chiến tranh.[27]

Hoa Kì nhanh chóng chỉnh đốn quân đội để cho kịp đề phòng trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Quan trọng hơn là sự lo lắng của các nước Tây Âu. Sau khi Berlin bị Liên Xô đóng khoá vào tháng 6 thì châu Âu cần phải được vỗ về liên tục và đảm bảo an ninh để liên minh với Hoa Kì.[28] Để thúc đẩy tinh thần của châu Âu và giảm bớt những lo lắng bấy giờ đang lan rộng trong dân chúng,[27] Hoa Kì bắt đầu xây dựng lại lực lượng vũ trang.[26]

Ban đầu Hoa Kì rất sợ chiến tranh giữa Liên Xô và phương Tây bùng nổ. Ngày 5 tháng 3 Tướng Lucius D. Clay ở Berlin đánh bức điện báo, cảnh cáo chiến tranh có thể đột ngột bùng cháy. Tại Washington Tướng Omar Bradley nhảy khỏi ghế sau khi đọc “bản bình luận tồi tệ” của Clay, nhà ngoại giao George F. Kennan thì cho biết cuộc đảo chính cùng bức điện báo làm cho quân đội và ngành tình báo phản ứng vượt mức mà lo sợ chiến tranh xảy ra. Chỉ một tuần sau Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đề nghị tăng gia lại quân bị và lập lại nghĩa vụ quân sự.[29] Thực ra giám đốc tình báo Lục quân Trung tướng Stephen Chamberlain đã xin Clay cung cấp tư liệu có thể khiến cho Quốc hội cấp nhiều tiền hơn cho quân đội, cho nên Clay mới có thái độ tiêu cực.

Tuy nhiên, ở châu Âu người dân vẫn hay bàn tán việc chiến tranh, “ngay trên đường phố và đương lúc uống cà phê.” Ngày 27 tháng 2 có tin Stalin mời Phần Lan ký hiệp ước tương trợ, nỗi sợ thêm trầm trọng hơn, Phần Lan chắc chắn sẽ rơi vào vòng của Liên Xô;[30] Na Uy cũng bị dưới sức ép làm hiệp ước.[31]

Giữa các quan điểm chán nản cũng có cách nhìn nhiềy hy vọng. Nhiều tháng trước Hoa Kì đã chấp nhận mất Tiệp Khắc. Tháng 11 năm 1947 Ngoại trưởng George C. Marshall nói với nội các, Liên Xô có lẽ sẽ sớm kìm kẹp Tiệp Khắc để củng cố quyền kiểm soát Đông Âu. Kennan đồng ý, Liên Xô dường như chỉ đang củng cố năng lực phòng thủ, chứ không sửa soạn xâm chiếm. Về sau ông viết rằng việc làm ở Tiệp Khắc và Berlin là “nước cờ đối phó” Kế hoạch Marshall và việc phương Tây thúc đẩy thành lập nhà nước Tây Đức. Truman đã dùng cuộc khủng hoảng để dẫn dụ Quốc hội thông qua Kế hoạch Marshall và chấp thuận chương trình tăng gia lại quân bị của Lầu Năm Góc.[32] Marshall tin cuộc đảo chính sẽ không thay đổi tình thế ba năm qua giữa các nước. Ngay khi ông đang họp báo để thúc đẩy kế hoạch viện trợ kinh tế vào ngày 10 tháng 3 thì Cục Tình báo Trung ương cho biết, mặc dù Liên Xô đã không thêm lên quân lực, trở nên hung hăng hơn, hay thay đổi chính sách chiến thuật sau cuộc đảo chính, và vẫn có thể muốn nối lại tình bạn bè với các nước phương Tây, Hoa Kì đã chọn hướng đi khác.[33] Ngày 2 tháng 3 cục trưởng CIA Roscoe H. Hillenkoetter cũng cho Truman biết, Liên Xô bất đắc dĩ phải chấp thuận cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc vì phe cộng sản không thể thắng cử vào tháng 5 nếu quyền kiểm soát cảnh sát đã bị phe không cộng sản lấy.[34]

Ý và Pháp

Ở Ý tổ chức bầu cử cả nước vào ngày 18 tháng 4. Mặt trận Dân chủ Bình dân do phe cộng sản cầm đầu có thể thắng cử. Sau khi cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc xảy ra thì phương Tây cho là Đảng Cộng sản Ý cũng có thể cướp quyền hành giống Đảng Cộng sản Tiệp Khắc; có thể người dân Ý sẽ không được bỏ phiếu. Anh xem quan hệ hợp tác giữa hai đảng cấp tiến chính của Ý là tai hại: sau khi giành được quyền lực thì Đảng Cộng sản Ý chắc chắn sẽ loại trừ Đảng Xã hội Ý. Ngoại trưởng Ernest Bevin phán đoán ngay “các lực lượng xã hội chủ nghĩa dân chủ” phải được củng cố và Anh phải ủng hộ Đảng Dân chủ Kitô giáo, bất chấp tham nhũng, lạm quyền, lừa gạt.[35]

Bevin đặc biệt lo lắng về sức mạnh của Đảng Cộng sản Ý. Đảng có thể sai khiến công đoàn quấy nhiễu công nghiệp để phá hoại không chỉ Kế hoạch Marshall, mà còn chính phủ Ý như ở Tiệp Khắc. Ngoại trưởng Ý bất an vì cuộc đảo chính quá gần ngày bầu cử, vẫn cam kết với Bevin rằng quân đội và cảnh sát đủ sức dẹp loạn và nói cuộc đảo chính sẽ làm mất lòng cử tri của phe xã hội chủ nghĩa.[35] Khi Đảng Cộng sản Ý và Đản Xã hội Ý bào chữa cho cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc là chiến thắng cho dân chủ và lấy cớ đề phòng đế quốc phương Tây tức là Hoa Kì để bênh vực cho việc vi phạm quyền công dân thì lời tiên tri được thực hiện, Mặt trận bị chê là làm trái lời hứa giữ ôn hoà.[36] Kennan đánh điện báo khuyên Ý cấm Đảng Cộng sản Ý và cho Hoa Kì đem quân vào nước nếu có thể xảy ra nội chiến, nhưng ông nhanh chóng giảm nhẹ ý kiến.[37]

Đại sứ Hoa Kì ở Ý lo gió chiều nào theo chiều ấy, cử tri Ý sẽ theo phe có khả năng chiến thắng lớn nhất, uy tín của Đảng Cộng sản Ý sẽ tăng sau cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc.[38] Trái ngược lại, cuộc đảo chính một phần làm cho nhiều cử tri bỏ phiếu Đảng Dân chủ Kitô giáo. Phe cấp tiến thua cử.[39] Stalin hài lòng rằng Hoa Kì không lấy quân đội trả miếng sau cuộc đảo chính Tiệp Khắc và không muốn gây ra chiến tranh, để yên kết quả bầu cử.[40]

Cùng lúc Hoa Kì giục chính phủ Pháp rửa sạch tội lỗi của Đức. Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault sợ nếu quạt cho cháy lòng chống Đức thì Đảng Cộng sản Pháp có thể lợi dụng dân chúng để lật đổ chính quyền. Tuy nhiên, cuộc đảo chính ép lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez bóng gió thừa nhận sẽ giúp đỡ Quân Đỏ nếu Liên Xô xâm chiếm Pháp.[41] Trước cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc, chính sách phá hoại thất bại của Đảng Cộng sản Pháp, và khả năng cao Kế hoạch Marshall sẽ thông qua, dân chúng Pháp bắt đầu ngả về phương Tây. Nay 70% người Pháp tin Hoa Kì sẽ giúp Pháp hơn bất cứ nước nào; Liên Xô chỉ được 7%. Pháp ngày càng thấy rõ Liên Xô đe doạ Pháp nhiều hơn Đức. Mặc dù vẫn sẽ giành giựt thế mạnh để thắng Đức, Pháp dần dần chấp nhận rửa tội nước Đức để xây dựng lại châu Âu sau chiến tranh.

Sau khi thông qua Kế hoạch Marshall thì Hoa Kì bắt đầu để ý đến lời kêu gọi thành lập một tổ chức phòng thủ lẫn nhau của Bevin. Lần đầu ông nhận thấy Hoa Kì không muốn liên minh một cách rõ ràng và ràng buộc với Tây Âu mặc dù quan hệ giữa phương Tây và Liên Xô đã tan vỡ vào tháng 12 năm 1947; Marshall không chịu chấp nhận ý tưởng đương lúc thảo luận với Bevin vào ngày 17 tháng 12.[42] Ngày 26 tháng 2 Bevin lại nhắc rằng cách tốt nhất để ngăn chặn một cuộc Tiệp Khắc khác xảy ra là có chung chiến lược, lần này tai trâu biết nghe đàn gảy, đặc biệt là vì Hoa Kì đang lo tình hình ở Ý.[42] Mùa xuân năm đó các lãnh tụ châu Âu thầm gặp mặt các viên chức quốc phòng, quân sự và ngoại giao Hoa Kỳ ở Lầu Năm Góc, theo lệnh của Marshall, để bàn bạc một tổ chức phòng thủ lẫn nhau chưa hề có. Năm sau NATO ra đời.[43]